Cứ mỗi dịp Lễ giỗ Tổ Hùng Vương 10-3 âm lịch hằng năm, mỗi người dân Việt Nam lại nhớ về thời đại khai sinh lập quốc, ghi nhớ công ơn dựng nước và giữ nước của ông cha, tiên tổ… Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ về quá trình hình thành và thời gian nhà nước Văn Lang ra đời vào thể kỷ nào? Ý nghĩa của sự ra đời nhà nước Văn Lang đối với lịch sử dân tộc ra sao.
Nhà nước văn lang ra đời vào thế kỷ nào?
Câu chuyện về các vị vua Hùng là vấn đề rất lớn, rất căn bản của lịch sử Việt Nam và Ý nghĩa của sự ra đời nhà nước Văn Lang lại càng quan trọng hơn đối với lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc. Trước đây nhiều người vẫn tin Hùng Vương dựng nước chỉ thuần túy là một truyền thuyết, một huyền thoại, mà không hiểu được cái lõi lịch sử của nó. Nhưng thực ra cũng từ rất sớm tổ tiên chúng ta đã bước đầu giải mã, đi tìm câu trả lời cho câu hỏi nhà nước Văn Lang ra đời vào thế kỷ nào, cách đây bao nhiêu năm? Bằng chứng là sách “Việt sử lược” đời Trần đã dành một mục để nói về thời đại Hùng Vương, An Dương Vương.
Cùng với đó, các nhà khoa học tập trung nghiên cứu về nhiều lĩnh vực như lịch sử cổ đại, địa lý lịch sử, dân tộc học, ngôn ngữ học lịch sử, cổ nhân học, địa chất học, sinh vật học… Trong đó lấy khảo cổ học thời đại kim khí (đồ đồng, đồ sắt) làm trung tâm cốt lõi để nhận định nước Văn Lang ra đời cách đây bao nhiêu năm.
Kết hợp tất cả các nguồn tư liệu (di tích, di vật, thư tịch cổ, truyền thuyết, phong tục thờ cúng, văn hóa dân gian, phương ngữ, địa danh… ở các địa phương), chúng ta đã giải mã, tìm ra được sự hợp lý và thống nhất của tất cả các nguồn tư liệu, làm cơ sở chứng minh một cách thuyết phục thời đại Hùng Vương dựng nước là thời đại có thật trong lịch sử Việt Nam, nó nằm trong khung niên đại của văn hóa Đông Sơn.
Trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” (dựa theo truyền thuyết dựng nước của Vua Hùng) thì cho rằng Kinh Dương Vương bắt đầu dựng nước vào năm 2879 trước Công Nguyên (TCN), tính đến nay (2021) thì đã có đến 4900 năm.
Còn dựa trên sách “Việt sử lược”, bộ sử thời Trần còn ghi lại được: “Đến đời Trang Vương nhà Chu (698-682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang… Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương”.
Dựa vào các tài liệu cùng những thành tựu nghiên cứu về thời đại Hùng Vương hiện nay, có thể đoán định có cơ sở rằng thời điểm ra đời của nước Văn Lang với tư cách là một nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII-VI TCN (ở giai đoạn Đông Sơn).
Sự ra đời của nhà nước Văn Lang
Vào khoảng các thế kỉ VIII – VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, đã dần dần hình thành những bộ lạc lớn, gần gũi nhau về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế, sản xuất phát triển. Trong các chiềng, chạ, một số người giàu lên, được bầu làm người đứng đầu để trông coi mọi việc, một số ít nghèo khổ, phải rơi vào cảnh nô tì. Mâu thuẫn giữa người giàu với nghèo nảy sinh và ngày càng tăng thêm.
Việc mở rộng nghề nông trồng lúa nước ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn gặp nhiều khó khăn.Vì vậy, cần phải có người chỉ huy đứng ra tập hợp nhân dân các làng bản chống lại thiên tai như mưa bão, lũ lụt, bảo vệ mùa màng.
Đất đai ở các vùng không giống nhau nên cuộc sống của người dân cũng khác nhau. Các làng bản có giao lưu với nhau nhưng cũng có xung đột. Xung đột không chỉ xảy ra giữa người Lạc Việt với các tộc người khác mà còn giữa các bộ lạc Lạc Việt với nhau, cần phải giải quyết các cuộc xung đột đó để sống yên ổn.
Nhà nước Văn Lang đã ra đời trong hoàn cảnh phức tạp nói trên. Sự ra đời của nước Văn Lang dù còn sơ khai và có phần sớm khi trong xã hội phân hóa chưa sâu sắc. Nhưng Ý nghĩa của sự ra đời nhà nước Văn Lang đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.
Cấu trúc và đặc điểm của nhà nước Văn Lang
Thư tịch cổ chép lại các truyền thuyết về nước Văn Lang là nhà nước sơ khai ở nước ta, đứng đầu là vua, gọi là Hùng Vương.
Hùng Vương là người chỉ huy quân sự đồng thời chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các”bộ”. Nước Văn Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc).
Lạc tướng (trước đó là tù trưởng) còn gọi là phụ đạo, bộ tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ có tên gọi là kẻ, chiềng, chạ). Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính.
Bên cạnh bồ chính còn có một nhóm người hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc của công xã nông thôn, mỗi công xã có nơi trung tâm hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng.
Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán về tình hình Âu Lạc trước khi nhà Hán xâm lược và đô hộ nước ta, có thể nói, bấy giờ nhà nước Văn Lang đã có pháp luật để điều chỉnh xã hội.
Sách “Hậu Hán thư” viết: luật của người Việt so sánh với luật Hán hơn mười điều. Cũng có thể “luật Việt” mà sách Hậu Hán thư ghi theo lời tâu của Mã Viện là một thứ luật tục (tập quán pháp chứ chưa phải là luật pháp thành văn). Sách thường ghi cư dân nước ta bấy giờ là người Lạc Việt và quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt.
Ý nghĩa của sự ra đời nhà nước Văn Lang trong lịch sử dân tộc
Sự ra đời nhà nước Văn Lang có ý nghĩa đặc biệt trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam.
- Đầu tiên sự ra đời của nhà nước Văn Lang khẳng định sự tồn tại có thật của thời đại Hùng Vương.
- Người Việt cổ tạo dựng nền văn minh đầu tiên với những thành tựu vô cùng to lớn và rực rỡ. Khẳng định lịch sử dựng nước sớm và lâu đời của dân tộc Việt Nam tạo cơ sở cho sự hình thành quốc gia dân tộc Việt Nam.
- Với những thành tựu rực rỡ đó đã tạo nên lối sống truyền thống, bản lĩnh của dân tộc Việt. Điều kiện chủ động cho dân tộc Việt bước vào cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc hơn 1000 năm, sau đó giành lại độc lập dân tộc, bước vào thời kỳ phát triển.
Có thể nói, Ý nghĩa của sự ra đời nhà nước Văn Lang – Thời đại dựng nước đầu tiên là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta vượt qua muôn trùng hiểm họa của cả nghìn năm Bắc thuộc. Và sẽ mãi mãi là nguồn lực tinh thần, vật chất vô cùng tận để chúng ta xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam thiêng liêng, được khởi lập từ thuở vua Hùng dựng nước Văn Lang.